Câu lạc bộ Tin học dành cho học sinh Tiểu học

Các loài bò sát

Trạng thái

♥ Lượt xem: 0
♥ Lượt phản hồi: 0

Huỳnh Trần Mỹ Linh 5-7

Gotoubun no hanayome và dabi là zợ iu của tui
Thành viên
Tham gia
01/11/2025
Bài viết
139
Điểm Like
431
Điểm Uy tín
20,641
Ngựa Ngộ Nghĩnh
Khỉ Kháu Khỉnh
Động vật bò sát là các động vật bốn chânmàng ối (nghĩa là các phôi thai được bao bọc trong màng ối) thuộc Lớp Bò s. Ngày nay, chúng còn lại các đại diện của 4 bộ còn sinh tồn là:
Lớp ThúLớp chim (2 nhánh lớn trong các loài động vật có xương sống) đều đã tiến hóa từ tổ tiên là bò sát. Trong đó, lớp Thú tiến hóa từ một loài bò sát cổ thuộc Bộ Cung thú- nhóm Synapsida (Mặt thú) sống cách đây khoảng 230 triệu năm, còn lớp chim tiến hóa từ một loài khủng long ăn thịt nhỏ sống cách đây khoảng 160 triệu năm.
Động vật bò sát được tìm thấy gần như ở mọi nơi trên thế giới, ngoại trừ châu Nam Cực, mặc dù khu vực phân bổ chính của chúng là các vùng nhiệt đớicận nhiệt đới. Mặc dù tất cả hoạt động trao đổi chất trong các tế bào sản sinh ra một nguồn năng lượng nhất định, nhưng phần lớn các loài bò sát ngày nay không sản sinh ra đủ năng lượng để duy trì một thân nhiệt ổn định và vì thế chúng còn được gọi là "động vật máu lạnh" (ectothermic), ngoại lệ duy nhất là rùa da (Dermochelys coriacea). Thay vì thế, chúng dựa trên việc thu và mất nhiệt từ môi trường để điều chỉnh nhiệt độ bên trong của chúng, chẳng hạn bằng cách di chuyển ra chỗ có ánh nắng hay chỗ có bóng râm, hoặc bằng cách tuần hoàn máu có ưu đãi — chuyển máu nóng vào phần trung tâm của cơ thể, trong khi đẩy máu lạnh ra các khu vực ngoại biên.
Trong môi trường sinh sống tự nhiên của chúng, phần lớn các loài là rất lão luyện trong công việc này, và chúng có thể thường xuyên duy trì nhiệt độ tại các cơ quan trung tâm trong một phạm vi dao động nhỏ, khi so sánh với các loài động vật có vúchim, hai nhóm còn sống sót của "động vật máu nóng". Trong khi sự thiếu hụt cơ chế điều chỉnh thân nhiệt bên trong đã làm chúng phải chịu một cái giá đáng kể cho việc này thông qua các hành vi, thì ở mặt khác nó cũng đem lại một số lợi ích đáng kể như cho phép động vật bò sát có thể tồn tại ở những khu vực ít thức ăn hơn so với các loài chim và động vật có vú có kích thước tương đương, là những động vật phải dành hầu hết nguồn năng lượng thu nạp được cho việc giữ ấm cơ thể. Trong khi về cơ bản thì động vật máu nóng di chuyển nhanh hơn so với động vật máu lạnh thì những loài thằn lằn, cá sấu hay rắn khi tấn công con mồi lại là những động vật di chuyển cực nhanh.
Ngoại trừ một số ít thành viên trong bộ Rùa (Testudines), thì tất cả các loài bò sát đều có vảy che phủ. Phần lớn các loài bò sát là động vật đẻ trứng. Tuy nhiên, nhiều loài trong nhóm Squamata lại có khả năng sinh ra con non. Điều này có thể là thông qua cơ chế đẻ trứng thai (nghĩa là con non phát triển trong vỏ trứng bên trong cơ thể mẹ trước khi sinh ra), hoặc đẻ con (con non được sinh ra không cần trứng có vỏ chứa calci). Nhiều loài đẻ con nuôi dưỡng bào thai của chúng thông qua các dạng nhau thai khác nhau, tương tự như ở động vật có vú (Pianka & Vitt, 2003, các trang 116-118). Con non của chúng thường phải tự vệ và tự lập một mình từ lúc mới sinh(rùa, thằn lằn). Một số khác như cá sấu và một số loài rắn chăm sóc con từ 1 đến 2 năm rồi mới rời đi.

Phân loại bò sát


Bò sát (nghĩa truyền thống) là một nhóm cận ngành. Nhóm này có thể biến thành đơn ngành khi cộng gộp cả lớp Chim (Aves). Nhóm đơn ngành mới tạo ra này tương đương với lớp Mặt thằn lằn(Sauropsida), nhưng nó vẫn không chứa các tổ tiên đã tuyệt chủng (cũng là bò sát) của lớp Thú (Mammalia).
Từ quan điểm của phân loại học cổ điển, bò sát bao gồm tất cả các loài động vật có màng ối còn lại sau khi trừ đi chimđộng vật có vú. Vì thế bò sát đã được định nghĩa như là một tập hợp các loài động vật bao gồm cá sấu, cá sấu Mỹ, tuatara, thằn lằn, rắn, thằn lằn có gai, rùa, được nhóm cùng nhau như là lớp Reptilia (từ tiếng Latinh repere, "trườn, bò"). Nó vẫn là định nghĩa thông thường của thuật ngữ này.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều nhà phân loại học đã bắt đầu cho rằng các đơn vị phân loại phải đảm bảo yếu tố đơn ngành, nghĩa là đơn vị phân loại đó phải bao gồm tất cả các hậu duệ từ một dạng cụ thể nào đó. Bò sát theo như định nghĩa ở phần trên là một nhóm cận ngành, do nó đã loại ra cả chim và động vật có vú, mặc dù cả hai lớp này cũng đều phát triển và tiến hóa từ bò sát nguyên thủy. Colin Tudge đã viết (bản dịch):
Động vật có vú là một nhánh đơn ngành, và vì thế các nhà miêu tả nhánh học là vui mừng khi biết rằng đơn vị phân loại truyền thống Mammalia; và cả chim đều là các nhánh đơn ngành, nói chung được quy cho đơn vị phân loại chính thức Aves. Mammalia và Aves trên thực tế là các phân nhánh trong nhánh lớn của Amniota (động vật có màng ối). Nhưng lớp truyền thống Reptilia lại không phải là một nhánh đơn ngành. Nó chỉ đơn thuần là một đoạn của nhánh Amniota: đoạn này là phần còn lại sau khi đã loại trừ Mammalia và Aves. Nó không thể được định nghĩa theo các đặc trưng được chia sẻ trong nhóm đang nghiên cứu mà không có ở các nhóm ngoài, theo như đúng cách. Thay vì thế, nó được định nghĩa bằng tổ hợp của các đặc trưng mà nó có lẫn với các đặc trưng mà nó không có: Bò sát là động vật có màng ối, không có cả lông mao lẫn lông vũ. Tốt nhất, các nhà miêu tả theo nhánh gợi ý là chúng ta nên nói về lớp Reptilia truyền thống là 'các động vật có màng ối, không là chim và không là động vật có vú'. (Tudge, trang 85)
Với cùng dấu hiệu đó, lớp Amphibia (động vật lưỡng cư) trở thành Amphibia*, do từ một số động vật lưỡng cư cổ đại đã sinh ra tất cả các động vật có màng ối; và ngành Crustacea (động vật giáp xác) trở thành Crustacea*, do từ nó có thể đã sinh ra côn trùng và động vật nhiều chân (động vật trăm chân và nghìn chân). Nếu chúng ta tin, giống như một số (không phải tất cả) các nhà động vật học đã tin, thì động vật nhiều chân đã sinh ra côn trùng, khi đó họ phải gọi chúng là Myriapoda*....bằng quy ước này thì Reptilia không có dấu hoa thị là từ đồng nghĩa với Amniota, và bao gồm cả chim và động vật có vú, trong đó Reptilia* nghĩa là các động vật có màng ối không là chim, không là động vật có vú. (Tudge, trang 85)
Các dẫn chiếu gần đây ở cấp độ đại học, chẳng hạn Benton (2004) [1] Lưu trữngày 19 tháng 10 năm 2008 tại Wayback Machine, đã đưa ra một thỏa hiệp khác bằng cách áp dụng các cấp bậc truyền thống để chấp nhận các mối quan hệ phát sinh loài. Trong trường hợp này, bò sát thuộc về lớp Sauropsida (mặt thằn lằn), và các bò sát giống như động vật có vú thuộc về lớp Synapsida (một cung bên hay cung thú), với chim và động vật có vú đã tách ra thành các lớp truyền thống của chúng.

Các nhóm bò sát

[Phân loại dưới đây là sự mở rộng của lớp Reptilia để chứa cả các tổ tiên đã tuyệt chủng của chimđộng vật có vú, phù hợp với quan điểm của phát sinh chủng loài học. Như vậy, nó là tương đương với Động vật có màng ối (Amniota).

Cây họ hàng

[td width="0.7em"]
 ​
[td width="0.7em"]
Amniota
[/td]​
Synapsida
[td width="0.7em"]
unnamed
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
Reptilia
[/td]​
[td width="0.7em"]
[td width="0.7em"]
 ​
[td width="0.7em"]
 ​
Mesosauridae
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
unnamed
[/td]​
Millerettidae
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
unnamed
[/td]​
Lanthanosuchidae
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
unnamed
[/td]​
Nyctiphruretia
[td width="0.7em"]
 ​
?Testudines
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
unnamed
[/td]​
Pareiasauria
Procolophonoidea
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
 ​
[/td]​
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
 ​
[/td]​
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
Romeriida​
[/td]​
Captorhinidae
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
unnamed
[/td]​
Protorothyrididae *
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"][/td]​
Araeoscelidia
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
unnamed
[/td]​
Younginiformes
[td width="0.7em"]
 ​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"][/td]​
?Ichthyosauria
?Sauropterygia
Lepidosauromorpha
Archosauromorpha
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
 ​
[/td]​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
 ​
[/td]​
[td]
 ​
[/td]​
[td width="0.7em"]
 ​
[/td]​
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​
[/td]
[td]
 ​
[/td]​

Sự tiến hóa của bò sát


Một con cá sấu Mỹ con
tại Georgetown, South Carolina
Hylonomus là bò sát cổ nhất đã biết, và chúng dài khoảng Westlothiana đã được cho là bò sát cổ nhất, nhưng ngày nay người ta cho rằng chúng có quan hệ họ hàng gần gũi với động vật lưỡng cư hơn là so với động vật có màng ối. PetrolacosaurusMesosaurus là các ví dụ khác. Những động vật đầu tiên được coi là "bò sát" thực thụ (Sauropsida) được phân loại như là Anapsida (phân lớp không cung), chúng có hộp sọ liền khối với các hốc chỉ dành cho mũi, mắt, tủy sống, v.v. Các loài rùa được coi là những động vật còn sống sót thuộc về phân lớp Anapsida, do chúng chia sẻ cấu trúc hộp sọ như thế; nhưng điểm này sau đó đã gây ra tranh cãi, với một số người cho rằng rùa đã trở lại với trạng thái nguyên thủy này nhằm hoàn thiện áo giáp của chúng. Cả hai luồng ý kiến đều có các chứng cứ hỗ trợ đủ mạnh, và mâu thuẫn này vẫn chưa được giải quyết.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi có những bò sát thực sự đầu tiên, hai nhánh đã được tách ra, một nhánh dẫn tới Anapsida, chúng đã không phát triển các hốc khác trên hộp sọ của mình. Nhánh kia là Diapsida (phân lớp Hai cung), chúng có được một cặp lỗ trên hộp sọ của mình ngay phía sau mắt, cùng với cặp lỗ thứ hai nằm cao hơn phía trên hộp sọ. Diapsida lại chia nhánh một lần nữa thành hai dòng trực hệ, là cận lớp Lepidosauromorpha (các đại diện ngày nay còn lại là rắn, thằn lằn và thằn lằn gai lưng (tuatara), cũng như chứa cả các loài bò sát biển (đang tranh cãi) đã tuyệt chủng trong đại Trung Sinh) và cận lớp Archosauromorpha (các đại diện ngày nay còn tồn tại chỉ là cá sấuchim, nhưng đã từng chứa cả thằn lằn có cánh (bộ Pterosauria) và khủng long (bộ Dinosauria)).
Những động vật có màng ối với hộp sọ liền khối đầu tiên cũng sinh ra một nhánh khác, đó là Synapsida (lớp Một cung hay lớp Mặt thú). Synapsida đã phát triển một cặp lỗ trong hộp sộ của chúng ngay phía sau mắt (tương tự như ở Diapsida), được sử dụng vừa là để làm nhẹ hộp sọ vừa để tăng không gian cho các cơ quai hàm. Synapsida cuối cùng tiến hóa thành động vật có vú, và thông thường được coi là các loài bò sát trông tương tự động vật có vú, mặc dù chúng không phải là các thành viên thực sự của lớp Sauropsida.

Sự tuyệt chủng của khủng long

[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối kỷ Creta, nhiều loài động vật bò sát bị tuyệt chủng, trong đó có khủng long. Chỉ một số loài có kích thước nhỏ sống sót như rắn, rùa biển... và một số dạng sau này tiến hóa thành chim và thú. Sự kết thúc của "Thời đại bò sát" mở ra "Thời đại của Thú". Mặc dù vậy, bò sát vẫn là một nhóm động vật chính trong hệ sinh thái, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới. Có khoảng 8.200 loài bò sát đang tồn tại (trong số đó gần một nửa là rắn), trong khi thú có vú có 5.400 loài (trong số đó hai phần ba là các loài Gặm nhấmcác loài dơi).
Nhóm phân loại hiện nay có số lượng cao nhất có nguồn gốc từ bò sát là các loài chim với trên 9.000 loài.


Hô hấp


Tất cả bò sát đều sử dụng phổi để thở. Tuy nhiên, ở các loài rùa sống dưới nước chúng còn phát triển lớp da dễ thấm khí hơn, và thậm chí đối với một số loài còn có cả mang trong khu vực hậu môn của chúng (xem Orenstein, 2001). Mặc dù có các cơ chế thích nghi như vậy, nhưng quá trình hô hấp vẫn không thể thực hiện được hoàn hảo mà không có phổi. Sự thông khí tại phổi được thực hiện rất khác nhau trong mỗi nhóm bò sát chính. Ở Squamata thì các phổi được thông khí gần như là chỉ bằng hệ thống cơ quanh trục. Đây cũng là hệ thống cơ được sử dụng khi chúng vận động. Do sự ép buộc này, phần lớn bò sát thuộc nhóm Squamata buộc phải nín thở khi phải chạy nhanh. Tuy nhiên, một số loài đã tìm ra cách đi vòng qua điều đó.




 

Trạng thái

♥ Lượt xem: 0
♥ Lượt phản hồi: 0

Trên Bottom