Trạng Quỳnh là một nhân vật giai thoại trong các truyện kể văn học dân gian Việt Nam, nổi tiếng với tính cách trào lộng, hài hước với bối cảnh thời vua Lê chúa Trịnh.
Trạng Quỳnh là một nhân vật giai thoại dân gian Việt Nam, nổi tiếng với trí thông minh và óc hài hước, thường được cho là dựa trên hình tượng danh sĩ lịch sử Nguyễn Quỳnh (1677–1748) ở làng Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông không thực sự đỗ làm "Trạng" mà chỉ đỗ Hương Cống, vì vậy dân gian gọi ông là Cống Quỳnh, và ông thường dùng tài năng của mình để châm biếm thói hư tật xấu của quan lại và bênh vực người nghèo. Ngoài ra, Trạng Quỳnh còn xuất hiện trong các tác phẩm văn học, điện ảnh, với hình tượng được phóng tác dựa trên các giai thoại dân gian.
Giai thoại và hình tượng nhân vật
trí thông minh, tài ứng đối sắc sảo và lối nói chuyện trào lộng, hài hước để phê phán thói hư tật xấu. Ông được xem là biểu tượng của trí tuệ dân gian, sức mạnh phản kháng bằng tiếng cười và khả năng dùng sự thông minh để vượt qua quyền lực và những điều phi lý.
Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh, hiệu Ôn Như, quê làng Bột Thượng, nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1677), xuất thân trong một gia đình Nho học. Ông nội đỗ Sinh đồ, chuyên nghề dạy học; cha làm giám sinh. Từ nhỏ, cụ Quỳnh đã theo ông nội học hành, 19 tuổi (có tài liệu là 20 tuổi) đỗ Giải nguyên, thi Hội nhiều lần nhưng đều trượt. Năm 41 tuổi, cụ Quỳnh đỗ Á nguyên khoa Sĩ Vọng. Cụ từng giữ chức Huấn đạo phủ Phụng Thiên, Tri phủ Thái Bình; sau về kinh đô làm Viên ngoại lang bộ Lễ, rồi chuyển sang chức Tu soạn Viện Hàn Lâm. Cụ mất ngày 28 tháng 1 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748), thọ 71 tuổi.
Cuộc đời thực của cụ Cống Quỳnh, thế hệ cháu con hôm nay chỉ biết được qua gia phả do Giáo sư Hà Văn Tấn dịch từ nguyên bản chữ Hán. Từ những chi tiết, sự việc được ghi lại trong gia phả, tài năng, nhân cách cụ Cống Quỳnh được khái quát: Đó là một con người rất thông minh, tài học phát lộ từ sớm. Mười bốn tuổi đã “năng văn”. Chỉ trong một năm, cậu bé Quỳnh đã học thuộc cả ba bộ kinh Dịch, Lễ và Thư. Sau khi đỗ Giải nguyên, Nguyễn Quỳnh lại càng nổi tiếng. Các danh sĩ đương thời đều kết giao với ông. Bởi vậy, cụ Cống Quỳnh là một trong những danh sĩ Bắc Hà ở thế kỷ XVIII được người đời ca tụng: “Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ hữu nghị/ Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam” (Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ chỉ có hai người đó thôi; Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ không có người thứ ba như thế). Tài năng là thế nhưng “sinh ra không gặp thời” nên con đường làm quan của cụ Cống Quỳnh luôn đầy rẫy những gập ghềnh, khó khăn. Làm quan, cho dù là huấn đạo ở kinh đô, gia cảnh cụ vẫn thanh bần. Khi được bổ làm tri phủ, gia cảnh có phần khấm khá hơn nhưng đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, cụ Cống Quỳnh đã phải về Bộ Lễ, làm viên Ngoại lang, sau đó chuyển sang làm tu soạn Viện Hàn Lâm. Theo như gia phả thì chức tu soạn là chức quan cuối cùng trong cuộc đời cụ.
Nối tiếng “năng văn” nhưng thực sự đáng tiếc bởi cho đến thời điểm hiện tại, di cảo còn được lưu giữ lại của cụ Cống Quỳnh quá ít ỏi. Bằng tất cả tình yêu thương, niềm tự hào, trân trọng; với tất cả nỗ lực tìm tòi, sưu tầm, khảo luận, biên khảo, nhà văn Nguyễn Đức Hiền, Giáo sư Hà Văn Tấn đã giới thiệu đến công chúng một phần nào trang viết của cụ. Đó là sáu bài văn bằng chữ Hán được chép lại trong Gia phả chi Giáp – chi của Nguyễn Quỳnh trong dòng họ Nguyễn. “Hành nghĩa ký”, “Sơ ngu văn”, “Tư mẫu đường ký”, “Văn tế khóc em tên là Cầu”, “Tốt khốc văn”, “Trung nguyên văn”... đều là những bài văn tế, bài ký người thân đã mất của cụ Cống Quỳnh. Bằng những lời giản dị, không chút tô điểm, cụ Cống Quỳnh đã kể về những người thực việc thực, qua đó nói lên nỗi đau của mình khi vĩnh biệt người thân yêu. Ngoài 6 bài văn tế, ký này, GS. Hà Văn Tấn vui mừng giới thiệu hai bài phú của cụ được chép ngay đầu tập sách “Lịch triều danh phú” – tập sách chép các bài phú chữ Hán, phần lớn của các tiến sĩ đời Lê. Bài phú: “Kim bạch tài vật phú” nói về tòa phủ vua Tần xây ở Hàm Dương để chứa vàng lụa của cải. Với giọng văn mạnh mẽ, cụ đã đả kích sự tham lam vơ vét của các vua Tần. Cụ chỉ trích nhà Tần chỉ biết “thu góp của cải mà mê muội không biết cái gốc là thu góp dân” và chính vì vậy, cuối cùng bị thất bại. Bài phú “Tần cung phụ nữ” nói về thân phận những người cung nữ trong cung vua Tần. Đây có thể coi là mở đầu cho các bài văn lấy đề tài “cung oán” có tính chất nhân văn sâu sắc thường gặp ở nửa sau thế kỷ XVIII. Từ những cứ liệu nêu trên, GS. Hà Văn Tấn kết luận: “Tin rằng Nguyễn Quỳnh là một người giỏi văn Nôm, thích hài hước, tôi không hề có ý đồng nhất Hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian. Không ai ngây thơ làm như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng Cống Quỳnh hoàn toàn có đủ tư cách để trở thành khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian”.
“Khởi hình lịch sử” của giai thoại dân gian
“Lịch sử là gì? Là thời gian cộng với dân”. Bởi vậy, “cái giá trị nhất là sự công nhận của nhân dân và bút tích gia phả còn lưu giữ được từ mấy đời nay” – những chia sẻ của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng với nhà văn Nguyễn Đức Hiền nhân sự kiện xuất bản cuốn sách về Trạng Quỳnh đã xóa nhòa khoảng cách giữa lịch sử và hiện tại, giữa nhân vật lịch sử Nguyễn Quỳnh với giai thoại dân gian Trạng Quỳnh. Thông qua cuộc trò chuyện này, chúng ta mới thấy được sức thu hút, tầm ảnh hưởng của “hiện tượng Trạng Quỳnh”.
Mối liên hệ giữa truyện dân gian và nhân vật Nguyễn Quỳnh đến đâu, không ai có thể khẳng định. Nhưng chính nhà văn Nguyễn Đức Hiền – hậu duệ của Hương cống Nguyễn Quỳnh, đồng tác giả cuốn Trạng Quỳnh trong cuộc nói chuyện với đồng chí Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ rằng: “Không thể có nguyên xi sự thật như giai thoại truyền miệng hay sách cũ ghi chép lại. Song cũng có sở cứ”. Trong Hành nghĩa ký (Bài ký làm việc nghĩa) do cụ Nguyễn Quỳnh viết (Hà Văn Tấn dịch) có viết: “Quỳnh tôi từ tấm bé, được ông nuôi dạy nhiều năm, lớn lên theo học kinh đô, chẳng được quạt nồng ấp lạnh để trọn đạo hiếu”. Là người tâm huyết, dày công khảo luận, biên khảo nhiều tài liệu về cụ cống Nguyễn Quỳnh nên Hà Văn Tấn đã chỉ ra cho chúng ta thấy sự gần gũi giữa nhân vật lịch sử Nguyễn Quỳnh với giai thoại dân gian “Trạng Quỳnh” dựa trên nhiều cứ liệu. Gia phả dòng họ Nguyễn ghi: Vào khoảng niên hiệu Bảo Thái, nhà Nguyễn Quỳnh ở ngay trước chùa Bà Đanh tại Thăng Long. Vì vậy, chuyện dân gian cho Trạng Quỳnh ở kinh đô vào đời Bảo Thái, không phải là không phản ánh sự thật. Qua các bài phú của cụ Nguyễn Quỳnh được ghi chép lại trong giả phả, Hà Văn Tấn lập luận: “Sách Nam thiên lịch đại tư lược sử, một quyển sử có lẽ được viết đầu thời Nguyễn, khi nói đến Nguyễn Quỳnh, có một câu đáng chú ý: “Quỳnh, Hoằng Hóa Bột Thái nhân, từ chương minh thế, đàm thuyết kinh nhân, trường quốc âm, thiện ư hí hước” (Quỳnh người Bột Thái, Hoằng Hóa, từ chương nổi tiếng ở đời nói năng bàn luận kinh người, sở trường về văn thơ Nôm và giỏi hài hước)... Những mô tả về tài năng của cụ Nguyễn Quỳnh “không khác với những gì chúng ta đã biết qua truyện Trạng Quỳnh” – một con người tài hoa, dí dỏm, thông minh pha chút khí phách ngang tàng, ngạo nghễ. “Hiển nhiên, tất cả đều chưa phải là chỗ dựa chắc chắn để chúng ta có thể tin hoàn toàn, nhưng hẳn phải có một cái lõi sự thật nào đó mới có một sự quy tụ lớn như thế. Có bao nhiêu ông Trạng trong Văn học dân gian thế mà chỉ có một mình Trạng Quỳnh có thời đại và quê hương được xác định. Rõ ràng không phải là ngẫu nhiên” – GS. Hà Văn Tấn lập luận (Trạng Quỳnh qua gia phả họ Nguyễn ở Thanh Hoa). Từ đó, ông khẳng định niềm tin của mình – niềm tin của một nhà khoa học sau quá trình bền bỉ làm việc, tôn trọng cứ liệu lịch sử: “Tin rằng Nguyễn Quỳnh là một người giỏi văn Nôm, thích hài hước, tôi không hề có ý đồng nhất Hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian. Không ai ngây thơ làm như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, Cống Quỳnh hoàn toàn có đủ tư cách đề trở thành khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian”.
Niềm tin về một “khởi hình lịch sử” của giai thoại dân gian Trạng Quỳnh cũng được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng chân thành thổ lộ: “Cứ cho là vài ba thế kỷ đi, từ ngày cụ Quỳnh mất đến nay, người ta vẫn nhắc đến con người ấy, đến Trạng Quỳnh và kể truyện Trạng Quỳnh, đâu phải là điều ngẫu nhiên... Song, đó là phần truyện. Còn con người, phải có một con người có thật, phải từ một con người thật và ta đã tìm được con người đó. Đọc sách, đọc những bài phú và gia phả, tôi đủ tin, rất tin...”. Và có lẽ, giờ đây, bên cạnh các tư liệu lịch sử thì sự tồn tại, nét đẹp, sức sống lâu bền của di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia – nhà thờ Nguyễn Quỳnh trên quê hương Hoằng Lộc như càng khẳng định thêm niềm tự hào của các thế hệ con cháu hôm nay. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Những con người ở quê hương đồng chí – từ ngàn xưa đến nay – vốn là những con người Việt Nam rất đẹp, hiếu học, hóm hỉnh. Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra những nhân vật như Hồ Xuân Hương, như Trạng Quỳnh còn sống được đến bây giờ tức là sẽ còn sống mãi thứ Văn học mà già, trẻ, cao, thấp, Nam, Bắc đọc đều thấy thú vị”.
Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh, hiệu Ôn Như, quê làng Bột Thượng, nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1677), xuất thân trong một gia đình Nho học. Ông nội đỗ Sinh đồ, chuyên nghề dạy học; cha làm giám sinh. Từ nhỏ, cụ Quỳnh đã theo ông nội học hành, 19 tuổi (có tài liệu là 20 tuổi) đỗ Giải nguyên, thi Hội nhiều lần nhưng đều trượt. Năm 41 tuổi, cụ Quỳnh đỗ Á nguyên khoa Sĩ Vọng. Cụ từng giữ chức Huấn đạo phủ Phụng Thiên, Tri phủ Thái Bình; sau về kinh đô làm Viên ngoại lang bộ Lễ, rồi chuyển sang chức Tu soạn Viện Hàn Lâm. Cụ mất ngày 28 tháng 1 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748), thọ 71 tuổi. Cuộc đời thực của cụ Cống Quỳnh, thế hệ cháu con hôm nay chỉ biết được qua gia phả do Giáo sư Hà Văn Tấn dịch từ nguyên bản chữ Hán. Từ những chi tiết, sự việc được ghi lại trong gia phả, tài năng, nhân cách cụ Cống Quỳnh được khái quát: Đó là một con người rất thông minh, tài học phát lộ từ sớm. Mười bốn tuổi đã “năng văn”. ...
Trạng Quỳnh là một nhân vật giai thoại dân gian Việt Nam, nổi tiếng với trí thông minh và óc hài hước, thường được cho là dựa trên hình tượng danh sĩ lịch sử Nguyễn Quỳnh (1677–1748) ở làng Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông không thực sự đỗ làm "Trạng" mà chỉ đỗ Hương Cống, vì vậy dân gian gọi ông là Cống Quỳnh, và ông thường dùng tài năng của mình để châm biếm thói hư tật xấu của quan lại và bênh vực người nghèo. Ngoài ra, Trạng Quỳnh còn xuất hiện trong các tác phẩm văn học, điện ảnh, với hình tượng được phóng tác dựa trên các giai thoại dân gian.
Giai thoại và hình tượng nhân vật
- Bối cảnh:
Nhân vật này gắn liền với thời vua Lê chúa Trịnh, sống trong các truyện kể dân gian, phim ảnh.
- Tính cách:
Thông minh, nhanh nhạy, trào lộng, hài hước, thường bày trò để châm biếm những thói xấu của tầng lớp quý tộc và quan lại.
- Hành động:
Dùng trí thông minh và tài ăn nói để bênh vực dân lành, đôi khi khôn lỏi nhưng rất tốt bụng và không tham danh lợi.
- Nguồn cảm hứng:
Nhân vật này được lấy cảm hứng từ danh sĩ Nguyễn Quỳnh, người từng đỗ Hương Cống và nổi tiếng với sự trào lộng.
- Bối cảnh:
- Chức danh:
Nguyễn Quỳnh thực tế chỉ đỗ Hương Cống, không phải là Trạng nguyên.
- Cái chết:
Trong giai thoại, Trạng Quỳnh có câu chuyện "Trạng chết chúa cũng băng hà" sau khi bị đầu độc, nhưng thực tế Nguyễn Quỳnh mất một cách bình thường vào năm 71 tuổi, không có sự kiện "chúa băng hà" nào xảy ra sau đó.
- Chức danh:
trí thông minh, tài ứng đối sắc sảo và lối nói chuyện trào lộng, hài hước để phê phán thói hư tật xấu. Ông được xem là biểu tượng của trí tuệ dân gian, sức mạnh phản kháng bằng tiếng cười và khả năng dùng sự thông minh để vượt qua quyền lực và những điều phi lý.
- Trí thông minh và tài đối đáp:Trạng Quỳnh nổi tiếng với khả năng quan sát tinh tế, am hiểu sâu sắc đời sống để tạo ra những câu chuyện vừa hài hước, vừa đầy ý nghĩa. Ông sử dụng trí tuệ của mình để đối đáp sắc sảo, thậm chí khiến triều đình phương Bắc phải nể phục trong các câu chuyện đi sứ, như được đề cập trong các giai thoại dân gian.
- Sự trào lộng và hài hước: Tính cách trào lộng, hài hước là nét đặc trưng của Trạng Quỳnh, là vũ khí để ông đấu tranh với cường quyền và thói hư tật xấu trong xã hội. Tiếng cười của ông mang tính bình dân nhưng sâu cay, nhắc nhở rằng trí tuệ và bản lĩnh có thể chiến thắng những điều phi lý.
- Biểu tượng của trí tuệ dân gian: Trạng Quỳnh không chỉ là một nhân vật hư cấu, mà còn là biểu tượng cho sức mạnh của trí tuệ dân gian. Câu chuyện của ông chứng minh rằng tiếng cười có thể là một vũ khí hiệu quả, thể hiện tinh thần phản kháng và trí tuệ có thể vượt lên trên mọi khuôn mẫu quyền lực.
- Về danh sĩ Nguyễn Quỳnh:Thực tế có một danh sĩ tên là Nguyễn Quỳnh (1677–1748) là nguồn gốc của nhân vật này. Ông thi đỗ Hương cống nên còn được gọi là Cống Quỳnh. Do sự nổi tiếng và tài năng của ông, dân gian đã gán ghép cho ông những câu chuyện mang màu sắc của một vị "trạng".
Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh, hiệu Ôn Như, quê làng Bột Thượng, nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1677), xuất thân trong một gia đình Nho học. Ông nội đỗ Sinh đồ, chuyên nghề dạy học; cha làm giám sinh. Từ nhỏ, cụ Quỳnh đã theo ông nội học hành, 19 tuổi (có tài liệu là 20 tuổi) đỗ Giải nguyên, thi Hội nhiều lần nhưng đều trượt. Năm 41 tuổi, cụ Quỳnh đỗ Á nguyên khoa Sĩ Vọng. Cụ từng giữ chức Huấn đạo phủ Phụng Thiên, Tri phủ Thái Bình; sau về kinh đô làm Viên ngoại lang bộ Lễ, rồi chuyển sang chức Tu soạn Viện Hàn Lâm. Cụ mất ngày 28 tháng 1 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748), thọ 71 tuổi.
Cuộc đời thực của cụ Cống Quỳnh, thế hệ cháu con hôm nay chỉ biết được qua gia phả do Giáo sư Hà Văn Tấn dịch từ nguyên bản chữ Hán. Từ những chi tiết, sự việc được ghi lại trong gia phả, tài năng, nhân cách cụ Cống Quỳnh được khái quát: Đó là một con người rất thông minh, tài học phát lộ từ sớm. Mười bốn tuổi đã “năng văn”. Chỉ trong một năm, cậu bé Quỳnh đã học thuộc cả ba bộ kinh Dịch, Lễ và Thư. Sau khi đỗ Giải nguyên, Nguyễn Quỳnh lại càng nổi tiếng. Các danh sĩ đương thời đều kết giao với ông. Bởi vậy, cụ Cống Quỳnh là một trong những danh sĩ Bắc Hà ở thế kỷ XVIII được người đời ca tụng: “Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ hữu nghị/ Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam” (Tuấn Cung, Tuấn Dị, thiên hạ chỉ có hai người đó thôi; Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ không có người thứ ba như thế). Tài năng là thế nhưng “sinh ra không gặp thời” nên con đường làm quan của cụ Cống Quỳnh luôn đầy rẫy những gập ghềnh, khó khăn. Làm quan, cho dù là huấn đạo ở kinh đô, gia cảnh cụ vẫn thanh bần. Khi được bổ làm tri phủ, gia cảnh có phần khấm khá hơn nhưng đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, cụ Cống Quỳnh đã phải về Bộ Lễ, làm viên Ngoại lang, sau đó chuyển sang làm tu soạn Viện Hàn Lâm. Theo như gia phả thì chức tu soạn là chức quan cuối cùng trong cuộc đời cụ.
Nối tiếng “năng văn” nhưng thực sự đáng tiếc bởi cho đến thời điểm hiện tại, di cảo còn được lưu giữ lại của cụ Cống Quỳnh quá ít ỏi. Bằng tất cả tình yêu thương, niềm tự hào, trân trọng; với tất cả nỗ lực tìm tòi, sưu tầm, khảo luận, biên khảo, nhà văn Nguyễn Đức Hiền, Giáo sư Hà Văn Tấn đã giới thiệu đến công chúng một phần nào trang viết của cụ. Đó là sáu bài văn bằng chữ Hán được chép lại trong Gia phả chi Giáp – chi của Nguyễn Quỳnh trong dòng họ Nguyễn. “Hành nghĩa ký”, “Sơ ngu văn”, “Tư mẫu đường ký”, “Văn tế khóc em tên là Cầu”, “Tốt khốc văn”, “Trung nguyên văn”... đều là những bài văn tế, bài ký người thân đã mất của cụ Cống Quỳnh. Bằng những lời giản dị, không chút tô điểm, cụ Cống Quỳnh đã kể về những người thực việc thực, qua đó nói lên nỗi đau của mình khi vĩnh biệt người thân yêu. Ngoài 6 bài văn tế, ký này, GS. Hà Văn Tấn vui mừng giới thiệu hai bài phú của cụ được chép ngay đầu tập sách “Lịch triều danh phú” – tập sách chép các bài phú chữ Hán, phần lớn của các tiến sĩ đời Lê. Bài phú: “Kim bạch tài vật phú” nói về tòa phủ vua Tần xây ở Hàm Dương để chứa vàng lụa của cải. Với giọng văn mạnh mẽ, cụ đã đả kích sự tham lam vơ vét của các vua Tần. Cụ chỉ trích nhà Tần chỉ biết “thu góp của cải mà mê muội không biết cái gốc là thu góp dân” và chính vì vậy, cuối cùng bị thất bại. Bài phú “Tần cung phụ nữ” nói về thân phận những người cung nữ trong cung vua Tần. Đây có thể coi là mở đầu cho các bài văn lấy đề tài “cung oán” có tính chất nhân văn sâu sắc thường gặp ở nửa sau thế kỷ XVIII. Từ những cứ liệu nêu trên, GS. Hà Văn Tấn kết luận: “Tin rằng Nguyễn Quỳnh là một người giỏi văn Nôm, thích hài hước, tôi không hề có ý đồng nhất Hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian. Không ai ngây thơ làm như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng Cống Quỳnh hoàn toàn có đủ tư cách để trở thành khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian”.
“Khởi hình lịch sử” của giai thoại dân gian
“Lịch sử là gì? Là thời gian cộng với dân”. Bởi vậy, “cái giá trị nhất là sự công nhận của nhân dân và bút tích gia phả còn lưu giữ được từ mấy đời nay” – những chia sẻ của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng với nhà văn Nguyễn Đức Hiền nhân sự kiện xuất bản cuốn sách về Trạng Quỳnh đã xóa nhòa khoảng cách giữa lịch sử và hiện tại, giữa nhân vật lịch sử Nguyễn Quỳnh với giai thoại dân gian Trạng Quỳnh. Thông qua cuộc trò chuyện này, chúng ta mới thấy được sức thu hút, tầm ảnh hưởng của “hiện tượng Trạng Quỳnh”.
Mối liên hệ giữa truyện dân gian và nhân vật Nguyễn Quỳnh đến đâu, không ai có thể khẳng định. Nhưng chính nhà văn Nguyễn Đức Hiền – hậu duệ của Hương cống Nguyễn Quỳnh, đồng tác giả cuốn Trạng Quỳnh trong cuộc nói chuyện với đồng chí Phạm Văn Đồng đã chỉ rõ rằng: “Không thể có nguyên xi sự thật như giai thoại truyền miệng hay sách cũ ghi chép lại. Song cũng có sở cứ”. Trong Hành nghĩa ký (Bài ký làm việc nghĩa) do cụ Nguyễn Quỳnh viết (Hà Văn Tấn dịch) có viết: “Quỳnh tôi từ tấm bé, được ông nuôi dạy nhiều năm, lớn lên theo học kinh đô, chẳng được quạt nồng ấp lạnh để trọn đạo hiếu”. Là người tâm huyết, dày công khảo luận, biên khảo nhiều tài liệu về cụ cống Nguyễn Quỳnh nên Hà Văn Tấn đã chỉ ra cho chúng ta thấy sự gần gũi giữa nhân vật lịch sử Nguyễn Quỳnh với giai thoại dân gian “Trạng Quỳnh” dựa trên nhiều cứ liệu. Gia phả dòng họ Nguyễn ghi: Vào khoảng niên hiệu Bảo Thái, nhà Nguyễn Quỳnh ở ngay trước chùa Bà Đanh tại Thăng Long. Vì vậy, chuyện dân gian cho Trạng Quỳnh ở kinh đô vào đời Bảo Thái, không phải là không phản ánh sự thật. Qua các bài phú của cụ Nguyễn Quỳnh được ghi chép lại trong giả phả, Hà Văn Tấn lập luận: “Sách Nam thiên lịch đại tư lược sử, một quyển sử có lẽ được viết đầu thời Nguyễn, khi nói đến Nguyễn Quỳnh, có một câu đáng chú ý: “Quỳnh, Hoằng Hóa Bột Thái nhân, từ chương minh thế, đàm thuyết kinh nhân, trường quốc âm, thiện ư hí hước” (Quỳnh người Bột Thái, Hoằng Hóa, từ chương nổi tiếng ở đời nói năng bàn luận kinh người, sở trường về văn thơ Nôm và giỏi hài hước)... Những mô tả về tài năng của cụ Nguyễn Quỳnh “không khác với những gì chúng ta đã biết qua truyện Trạng Quỳnh” – một con người tài hoa, dí dỏm, thông minh pha chút khí phách ngang tàng, ngạo nghễ. “Hiển nhiên, tất cả đều chưa phải là chỗ dựa chắc chắn để chúng ta có thể tin hoàn toàn, nhưng hẳn phải có một cái lõi sự thật nào đó mới có một sự quy tụ lớn như thế. Có bao nhiêu ông Trạng trong Văn học dân gian thế mà chỉ có một mình Trạng Quỳnh có thời đại và quê hương được xác định. Rõ ràng không phải là ngẫu nhiên” – GS. Hà Văn Tấn lập luận (Trạng Quỳnh qua gia phả họ Nguyễn ở Thanh Hoa). Từ đó, ông khẳng định niềm tin của mình – niềm tin của một nhà khoa học sau quá trình bền bỉ làm việc, tôn trọng cứ liệu lịch sử: “Tin rằng Nguyễn Quỳnh là một người giỏi văn Nôm, thích hài hước, tôi không hề có ý đồng nhất Hương cống Nguyễn Quỳnh với Trạng Quỳnh dân gian. Không ai ngây thơ làm như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, Cống Quỳnh hoàn toàn có đủ tư cách đề trở thành khởi hình lịch sử của Trạng Quỳnh dân gian”.
Niềm tin về một “khởi hình lịch sử” của giai thoại dân gian Trạng Quỳnh cũng được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng chân thành thổ lộ: “Cứ cho là vài ba thế kỷ đi, từ ngày cụ Quỳnh mất đến nay, người ta vẫn nhắc đến con người ấy, đến Trạng Quỳnh và kể truyện Trạng Quỳnh, đâu phải là điều ngẫu nhiên... Song, đó là phần truyện. Còn con người, phải có một con người có thật, phải từ một con người thật và ta đã tìm được con người đó. Đọc sách, đọc những bài phú và gia phả, tôi đủ tin, rất tin...”. Và có lẽ, giờ đây, bên cạnh các tư liệu lịch sử thì sự tồn tại, nét đẹp, sức sống lâu bền của di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia – nhà thờ Nguyễn Quỳnh trên quê hương Hoằng Lộc như càng khẳng định thêm niềm tự hào của các thế hệ con cháu hôm nay. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Những con người ở quê hương đồng chí – từ ngàn xưa đến nay – vốn là những con người Việt Nam rất đẹp, hiếu học, hóm hỉnh. Đất nước Việt Nam đã sản sinh ra những nhân vật như Hồ Xuân Hương, như Trạng Quỳnh còn sống được đến bây giờ tức là sẽ còn sống mãi thứ Văn học mà già, trẻ, cao, thấp, Nam, Bắc đọc đều thấy thú vị”.
Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh, hiệu Ôn Như, quê làng Bột Thượng, nay thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm Đinh Tỵ, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 2 (1677), xuất thân trong một gia đình Nho học. Ông nội đỗ Sinh đồ, chuyên nghề dạy học; cha làm giám sinh. Từ nhỏ, cụ Quỳnh đã theo ông nội học hành, 19 tuổi (có tài liệu là 20 tuổi) đỗ Giải nguyên, thi Hội nhiều lần nhưng đều trượt. Năm 41 tuổi, cụ Quỳnh đỗ Á nguyên khoa Sĩ Vọng. Cụ từng giữ chức Huấn đạo phủ Phụng Thiên, Tri phủ Thái Bình; sau về kinh đô làm Viên ngoại lang bộ Lễ, rồi chuyển sang chức Tu soạn Viện Hàn Lâm. Cụ mất ngày 28 tháng 1 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748), thọ 71 tuổi. Cuộc đời thực của cụ Cống Quỳnh, thế hệ cháu con hôm nay chỉ biết được qua gia phả do Giáo sư Hà Văn Tấn dịch từ nguyên bản chữ Hán. Từ những chi tiết, sự việc được ghi lại trong gia phả, tài năng, nhân cách cụ Cống Quỳnh được khái quát: Đó là một con người rất thông minh, tài học phát lộ từ sớm. Mười bốn tuổi đã “năng văn”. ...
