Sử" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem Sử (định hướng).
Bài này viết về bộ môn học thuật. Đối với khái quát lịch sử nhân loại, xem Lịch sử thế giới. Đối với khái quát lịch sử Trái Đất, xem Lịch sử Trái Đất. Đối với các cách dùng khác, xem History.
Lịch sử là nghiên cứu có hệ thống về quá khứ, tập trung chủ yếu vào quá khứ của loài người. Dưới hình thức một môn học, lịch sử phân tích và diễn giải bằng chứng để tường thuật lại những gì đã xảy ra và giải thích lý do cũng như cách thức mà sự việc đó xảy ra. Một số nhà lý thuyết xem lịch sử là một môn khoa học xã hội còn số khác xem đây là bộ phận của nhân văn học hoặc là một bộ môn hỗn hợp. Có nhiều tranh luận tương tự xoay quanh mục đích của lịch sử, chẳng hạn như liệu mục tiêu chính của nó là để khám phá chân lý (hướng lý thuyết) hay là rút ra bài học kinh nghiệm từ quá khứ (hướng thực tiễn). Theo cách hiểu suy rộng, ngoài ý nghĩa lĩnh vực học thuật, thuật ngữ lịch sử còn chỉ cả bản thân quá khứ, những thời điểm trong quá khứ hoặc các văn bản riêng lẻ liên quan đến quá khứ.
Nghiên cứu lịch sử phụ thuộc vào các nguồn tư liệu sơ cấp và thứ cấp để tái hiện các sự kiện trong quá khứ và xác nhận diễn giải. Phê phán sử liệu là một phương pháp được sử dụng để đánh giá những nguồn này dựa trên tính xác thực, nội dung và độ tin cậy. Giới sử học thường cố gắng kết hợp quan điểm giữa nhiều nguồn tài liệu để tạo nên mạch tự sự thống nhất. Các trường phái tư tưởng khác nhau như chủ nghĩa thực chứng, trường phái Annales, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa hậu hiện đại có cách tiếp cận phương pháp luận khác nhau.
Lịch sử là một bộ môn rộng bao gồm nhiều nhánh. Một số phân nhánh tập trung vào các giai đoạn thời gian cụ thể (ví dụ như thời kỳ cổ đại), còn số khác hướng đến những khu vực địa lý nhất định (chẳng hạn như lịch sử châu Phi). Theo phạm vi lĩnh vực, lịch sử có thể được phân loại thành lịch sử chính trị, lịch sử quân sự, lịch sử xã hội, lịch sử kinh tế, v.v. Các phân nhánh theo loại tư liệu và phương pháp nghiên cứu bao gồm lịch sử định lượng, lịch sử so sánh và lịch sử truyền miệng.
Lịch sử ra đời dưới hình thức lĩnh vực nghiên cứu ở thời cổ đại thay thế những câu chuyện truyền thuyết, bắt nguồn chủ yếu ở Hy Lạp, Trung Quốc và sau này là thế giới Hồi giáo. Ghi chép lịch sử trải qua nhiều biến đổi theo thời gian và ngày càng có tính chuyên nghiệp cao, nhất là vào thế kỷ 19 với sự xuất hiện một phương pháp luận nghiêm ngặt cùng hàng loạt cơ sở học thuật được thành lập. Lịch sử có liên hệ với nhiều lĩnh vực như sử luận, triết học, giáo dục và chính trị.
Theo nghĩa hơi khác một chút, lịch sử chỉ bản thân các sự kiện trong quá khứ. Theo cách hiểu này, lịch sử chính là những gì đã xảy ra thay vì là môn học thuật nghiên cứu những điều đã xảy ra. Ngoài ra, lịch sử còn có một nghĩa khác là ghi chép về quá khứ dưới hình thức văn bản. Văn bản lịch sử là sản phẩm văn hóa phản ánh quá trình lý giải và tái cấu trúc thường xuyên từ các nhà sử học. Cách tường thuật trong các văn bản lịch sử có thể thay đổi khi nhà sử học tìm thấy bằng chứng mới hoặc lý giải lại sử liệu hiện có. Trái lại, bản thân quá khứ là bất biến và không thể thay đổi.[3] Một số sử gia tập trung vào các khía cạnh lý giải và giải thích để phân biệt lịch sử với biên niên sử, với luận điểm rằng biên niên sử chỉ liệt kê các sự kiện theo trình tự thời gian còn lịch sử hướng đến hiểu biết toàn diện về nguyên nhân, bối cảnh đến hệ quả.[4][a]
Từ trước đến nay, lịch sử chủ yếu nghiên cứu những gì được con người ghi lại bằng chữ viết. Vì thế, môn này tập trung vào các sự kiện xảy ra sau khi con người phát minh ra chữ viết (gọi là lịch sử ghi chép), còn thời kỳ trước đó, gọi là thời tiền sử,https://vi.wikipedia.org/wiki/Lịch_sử#cite_note-8 thường do ngành khảo cổ học nghiên cứu.[7] Tuy nhiên, sang thế kỷ 20, các nhà sử học đã mở rộng phạm vi và bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến quá khứ của loài người trước thời điểm chữ viết ra đời.[8][c]
Giới sử học tranh luận về việc lịch sử là một môn khoa học xã hội hay là bộ phận của nhân văn học. Tương tự như với khoa học xã hội, nhà sử học xây dựng giả thuyết, thu thập bằng chứng khách quan và trình bày luận điểm dựa trên bằng chứng đó. Mặt khác, lịch sử cũng liên hệ chặt chẽ với nhân văn học vì phụ thuộc vào các khía cạnh chủ quan gắn liền với sự lý giải, kể chuyện, kinh nghiệm của con người và di sản văn hóa.[10] Một số sử gia ủng hộ phân loại theo chỉ một trong hai cách nêu trên, còn số khác xem lịch sử là một môn hỗn hợp không thuộc về phạm trù cụ thể nào theo hướng loại trừ với phạm trù còn lại.[11] Lịch sử đối lập với ngụy sử, một thuật ngữ chỉ sử luận lệch chuẩn do dùng bằng chứng lịch sử gây tranh cãi, cố tình bỏ qua bằng chứng đã xác thực hoặc sử dụng cách thức khác để bóp méo ghi chép lịch sử. Thường được thúc đẩy bởi một số ý thức hệ nhất định, ngụy sử bắt chước phương pháp lịch sử để truyền bá cách tường thuật thiên lệch, gây hiểu lầm, không dựa trên phân tích nghiêm ngặt và thiếu sự đồng thuận về mặt học thuật.[12]
Một góc nhìn khác cho rằng giá trị cốt lõi của lịch sử nằm ở những bài học kinh nghiệm để lại cho nhân loại ngày nay. Ý tưởng ở đây là hiểu rõ quá khứ sẽ giúp con người ra quyết định tốt hơn, chẳng hạn như để tránh lặp lại sai lầm của quá khứ.[15] Ngoài ra, lịch sử còn giúp ta hiểu về bản chất con người. Trong những bối cảnh và thời đại khác nhau, con người sẽ cư xử khác đi, giống như việc người ta du lịch để học hỏi về các nền văn hóa mới vậy.[16] Lịch sử cũng đóng vai trò là chất keo gắn kết xã hội. Khi nhiều người có chung một quá khứ, họ hình thành một bản sắc tập thể vững chắc, nhờ đó các di sản và giá trị văn hóa được bảo tồn và lưu truyền qua nhiều thế hệ.[17] Đối với một số học giả, bao gồm giới sử gia Whig và học giả Mác-xít E. H. Carr, lịch sử là chìa khóa để am hiểu hiện tại[18] và (theo Carr) định hình tương lai.[19]
Lịch sử đôi lúc cũng được sử dụng làm công cụ chính trị và công cụ tuyên truyền, ví dụ như ca ngợi những truyền thống cũ nhằm giúp giới cầm quyền duy trì hiện trạng hoặc phơi bày những bất công trong quá khứ để thúc đẩy thay đổi.[20] Ở dạng cực đoan, người ta cố ý bỏ qua hoặc xuyên tạc bằng chứng để tạo ra những câu chuyện hoàn toàn sai lệch, dẫn đến ngụy sử hoặc xuyên tạc lịch sử.[12][e] Một số ví dụ tiêu biểu gồm phủ nhận sự tồn tại của nạn diệt chủng Holocaust, diệt chủng Armenia, thảm sát Nam Kinh và Holodomor.[22]
Bài này viết về bộ môn học thuật. Đối với khái quát lịch sử nhân loại, xem Lịch sử thế giới. Đối với khái quát lịch sử Trái Đất, xem Lịch sử Trái Đất. Đối với các cách dùng khác, xem History.
Lịch sử là nghiên cứu có hệ thống về quá khứ, tập trung chủ yếu vào quá khứ của loài người. Dưới hình thức một môn học, lịch sử phân tích và diễn giải bằng chứng để tường thuật lại những gì đã xảy ra và giải thích lý do cũng như cách thức mà sự việc đó xảy ra. Một số nhà lý thuyết xem lịch sử là một môn khoa học xã hội còn số khác xem đây là bộ phận của nhân văn học hoặc là một bộ môn hỗn hợp. Có nhiều tranh luận tương tự xoay quanh mục đích của lịch sử, chẳng hạn như liệu mục tiêu chính của nó là để khám phá chân lý (hướng lý thuyết) hay là rút ra bài học kinh nghiệm từ quá khứ (hướng thực tiễn). Theo cách hiểu suy rộng, ngoài ý nghĩa lĩnh vực học thuật, thuật ngữ lịch sử còn chỉ cả bản thân quá khứ, những thời điểm trong quá khứ hoặc các văn bản riêng lẻ liên quan đến quá khứ.
Nghiên cứu lịch sử phụ thuộc vào các nguồn tư liệu sơ cấp và thứ cấp để tái hiện các sự kiện trong quá khứ và xác nhận diễn giải. Phê phán sử liệu là một phương pháp được sử dụng để đánh giá những nguồn này dựa trên tính xác thực, nội dung và độ tin cậy. Giới sử học thường cố gắng kết hợp quan điểm giữa nhiều nguồn tài liệu để tạo nên mạch tự sự thống nhất. Các trường phái tư tưởng khác nhau như chủ nghĩa thực chứng, trường phái Annales, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa hậu hiện đại có cách tiếp cận phương pháp luận khác nhau.
Lịch sử là một bộ môn rộng bao gồm nhiều nhánh. Một số phân nhánh tập trung vào các giai đoạn thời gian cụ thể (ví dụ như thời kỳ cổ đại), còn số khác hướng đến những khu vực địa lý nhất định (chẳng hạn như lịch sử châu Phi). Theo phạm vi lĩnh vực, lịch sử có thể được phân loại thành lịch sử chính trị, lịch sử quân sự, lịch sử xã hội, lịch sử kinh tế, v.v. Các phân nhánh theo loại tư liệu và phương pháp nghiên cứu bao gồm lịch sử định lượng, lịch sử so sánh và lịch sử truyền miệng.
Lịch sử ra đời dưới hình thức lĩnh vực nghiên cứu ở thời cổ đại thay thế những câu chuyện truyền thuyết, bắt nguồn chủ yếu ở Hy Lạp, Trung Quốc và sau này là thế giới Hồi giáo. Ghi chép lịch sử trải qua nhiều biến đổi theo thời gian và ngày càng có tính chuyên nghiệp cao, nhất là vào thế kỷ 19 với sự xuất hiện một phương pháp luận nghiêm ngặt cùng hàng loạt cơ sở học thuật được thành lập. Lịch sử có liên hệ với nhiều lĩnh vực như sử luận, triết học, giáo dục và chính trị.
Định nghĩa
Dưới dạng một bộ môn học thuật, lịch sử là ngành nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là quá khứ của loài người.[1] Mục tiêu của lịch sử là khái quát và tái hiện những gì đã xảy ra bằng cách thu thập và phân tích các bằng chứng để tổng hợp thành tường thuật. Những tường thuật này làm sáng tỏ diễn biến vụ việc, nguyên nhân hình thành và bối cảnh lịch sử cụ thể, qua đó giải thích điều kiện bối cảnh và cơ chế nhân quả liên quan đến chúng. Ngoài ra, lịch sử còn phân tích ý nghĩa của những sự việc trong quá khứ và khám phá những động cơ đã thúc đẩy hành động của con người.[2]Theo nghĩa hơi khác một chút, lịch sử chỉ bản thân các sự kiện trong quá khứ. Theo cách hiểu này, lịch sử chính là những gì đã xảy ra thay vì là môn học thuật nghiên cứu những điều đã xảy ra. Ngoài ra, lịch sử còn có một nghĩa khác là ghi chép về quá khứ dưới hình thức văn bản. Văn bản lịch sử là sản phẩm văn hóa phản ánh quá trình lý giải và tái cấu trúc thường xuyên từ các nhà sử học. Cách tường thuật trong các văn bản lịch sử có thể thay đổi khi nhà sử học tìm thấy bằng chứng mới hoặc lý giải lại sử liệu hiện có. Trái lại, bản thân quá khứ là bất biến và không thể thay đổi.[3] Một số sử gia tập trung vào các khía cạnh lý giải và giải thích để phân biệt lịch sử với biên niên sử, với luận điểm rằng biên niên sử chỉ liệt kê các sự kiện theo trình tự thời gian còn lịch sử hướng đến hiểu biết toàn diện về nguyên nhân, bối cảnh đến hệ quả.[4][a]
Từ trước đến nay, lịch sử chủ yếu nghiên cứu những gì được con người ghi lại bằng chữ viết. Vì thế, môn này tập trung vào các sự kiện xảy ra sau khi con người phát minh ra chữ viết (gọi là lịch sử ghi chép), còn thời kỳ trước đó, gọi là thời tiền sử,https://vi.wikipedia.org/wiki/Lịch_sử#cite_note-8 thường do ngành khảo cổ học nghiên cứu.[7] Tuy nhiên, sang thế kỷ 20, các nhà sử học đã mở rộng phạm vi và bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến quá khứ của loài người trước thời điểm chữ viết ra đời.[8][c]
Giới sử học tranh luận về việc lịch sử là một môn khoa học xã hội hay là bộ phận của nhân văn học. Tương tự như với khoa học xã hội, nhà sử học xây dựng giả thuyết, thu thập bằng chứng khách quan và trình bày luận điểm dựa trên bằng chứng đó. Mặt khác, lịch sử cũng liên hệ chặt chẽ với nhân văn học vì phụ thuộc vào các khía cạnh chủ quan gắn liền với sự lý giải, kể chuyện, kinh nghiệm của con người và di sản văn hóa.[10] Một số sử gia ủng hộ phân loại theo chỉ một trong hai cách nêu trên, còn số khác xem lịch sử là một môn hỗn hợp không thuộc về phạm trù cụ thể nào theo hướng loại trừ với phạm trù còn lại.[11] Lịch sử đối lập với ngụy sử, một thuật ngữ chỉ sử luận lệch chuẩn do dùng bằng chứng lịch sử gây tranh cãi, cố tình bỏ qua bằng chứng đã xác thực hoặc sử dụng cách thức khác để bóp méo ghi chép lịch sử. Thường được thúc đẩy bởi một số ý thức hệ nhất định, ngụy sử bắt chước phương pháp lịch sử để truyền bá cách tường thuật thiên lệch, gây hiểu lầm, không dựa trên phân tích nghiêm ngặt và thiếu sự đồng thuận về mặt học thuật.[12]
Mục đích
Đã có nhiều ý kiến được đưa ra về mục đích hoặc giá trị của lịch sử. Một số sử gia cho rằng mục đích chính của lịch sử chỉ đơn giản là tìm ra chân lý về quá khứ. Theo quan điểm này, mưu cầu chân lý công tâm là một mục đích tự thân và không nên bị ảnh hưởng bởi những mục đích bên ngoài như chính trị hay ý thức hệ, vì như vậy có thể xuyên tạc quá khứ và ảnh hưởng xấu đến độ chính xác của nghiên cứu lịch sử. Khi đóng vai trò đi tìm chân lý, lịch sử còn có nhiệm vụ làm sáng tỏ những câu chuyện truyền miệng hay thần thoại đã tồn tại từ lâu nhưng thiếu bằng chứng xác thực.[13][d]Một góc nhìn khác cho rằng giá trị cốt lõi của lịch sử nằm ở những bài học kinh nghiệm để lại cho nhân loại ngày nay. Ý tưởng ở đây là hiểu rõ quá khứ sẽ giúp con người ra quyết định tốt hơn, chẳng hạn như để tránh lặp lại sai lầm của quá khứ.[15] Ngoài ra, lịch sử còn giúp ta hiểu về bản chất con người. Trong những bối cảnh và thời đại khác nhau, con người sẽ cư xử khác đi, giống như việc người ta du lịch để học hỏi về các nền văn hóa mới vậy.[16] Lịch sử cũng đóng vai trò là chất keo gắn kết xã hội. Khi nhiều người có chung một quá khứ, họ hình thành một bản sắc tập thể vững chắc, nhờ đó các di sản và giá trị văn hóa được bảo tồn và lưu truyền qua nhiều thế hệ.[17] Đối với một số học giả, bao gồm giới sử gia Whig và học giả Mác-xít E. H. Carr, lịch sử là chìa khóa để am hiểu hiện tại[18] và (theo Carr) định hình tương lai.[19]
Lịch sử đôi lúc cũng được sử dụng làm công cụ chính trị và công cụ tuyên truyền, ví dụ như ca ngợi những truyền thống cũ nhằm giúp giới cầm quyền duy trì hiện trạng hoặc phơi bày những bất công trong quá khứ để thúc đẩy thay đổi.[20] Ở dạng cực đoan, người ta cố ý bỏ qua hoặc xuyên tạc bằng chứng để tạo ra những câu chuyện hoàn toàn sai lệch, dẫn đến ngụy sử hoặc xuyên tạc lịch sử.[12][e] Một số ví dụ tiêu biểu gồm phủ nhận sự tồn tại của nạn diệt chủng Holocaust, diệt chủng Armenia, thảm sát Nam Kinh và Holodomor.[22]
